Chúng sanh và lục thông

Lục thông là sáu thần thông ưu việt hơn những năng lực bình thường của đa số chúng sanh nhân giới. Sáu thần thông bao gồm:

 

Thần túc thông: khả năng di chuyển, hiện thân theo ý muốn, không bị giới hạn bởi không gian và vật cản nào.

Thiên nhãn thông: khả năng thấy rõ vạn vật xa gần, thấy được bản chất thật sự của chúng sinh, cũng có thể thấy được các cõi giới và các hàng chúng sanh trong đó.

Thiên nhĩ thông: khả năng nghe hiểu các âm thanh trong các cõi giới.

Tha tâm thông: khả năng hiểu hết các suy nghĩ cuả chúng sanh trong các cõi giới.

Túc mệnh thông: khả năng biết quá khứ, hiện tại, vị lai của sinh mạng mình và chúng sanh trong các cõi giới.

Lậu tận thông: khả năng thấy rõ chân lý, dứt hẳn phiền não, đạt được quả vị giải thoát.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Để đạt được những thần thông ấy cần thông qua quá trình tu tập và thiền định. Do vậy, trừ các vị thánh đệ tử và cao tăng tổ đức hay danh tăng ẩn tu, hầu như chúng sinh bình phàm không ai có khả năng siêu việt này.

Nhưng nhân thế vốn ảo vọng những điều ngoài tầm với.

Chúng sinh không có khả năng thần thông, lại chấp niệm vào những huyền thuật bí ẩn nhiệm mầu. Cũng chính thế mà nhiều người lợi dụng điều này để lừa đảo, hưởng lợi, thậm chí thao túng và điều khiển tâm trí những người nhẹ dạ, gây bao hệ luỵ và tổn hại khó lòng đong đếm được, tựa như sóng biển, thấy vài gợn sóng lăn tăn, ẩn sâu dưới lòng đại dương là cuồn cuộn sóng ngầm, dồn dập ngày đêm vào đánh vào lòng người.

Đâu biết rằng, cốt lõi của những chiêu trò lừa gạt vốn dựa trên tư duy không vững chắc, nỗi sợ hoang đường, và cả tham đắm vào thứ danh lợi mơ hồ. Xem bói, tiên đoán vận mệnh, sửa tướng đổi vận… đều thu hút rất nhiều người. Những người tự giới thiệu là có năng lực đặc biệt, hầu như khá nhanh nhạy, họ dùng ngôn từ lôi cuốn, hấp dẫn, phủ lên những câu chuyện vài phần ma mị, huyền ảo, đánh vào nỗi sợ, đức tin và lòng tham của con người.

Về phần nạn nhân, ban đầu vì tò mò, nhưng chỉ cần một câu kích thích trúng tâm ý cuả khách hàng, liền đã bước một chân vào bẫy, để si mê dẫn lối, dần phụ thuộc vào những lời đoán định “tiên tri” ở tương lai. Nên mới có chuyện tốn tiền của đi cắt duyên âm, bày mâm cỗ cúng bái (mà cúng ai? Ai chứng? Thì hoàn toàn mờ mịt!), thỉnh bùa làm ăn, mua may bán đắt, tăng phước xua tà… Nhưng liệu ai đã từng tự hỏi, nếu người ta thần thông thế, đã bao giờ tự coi được số mệnh của mình? Phước nghiệp của mình, hậu vận của mình chưa?

Cá nhân tôi cảm thấy, khi còn mang tâm tính phàm phu, không có lục thông là một may mắn, một sự bảo vệ. Tâm trí mình chưa bao giờ tĩnh lặng, như vườn cỏ hoang, bất kì ngọn gió nghiệp nào thổi nhẹ cũng làm xao động.

Mỗi ngày ngũ căn mình tiếp xúc với trần cảnh, sinh ra đủ chướng duyên dính mắc. Các khả năng của ta có giới hạn, thế mà cả đời vẫn không yên, xoay vần theo mắt thấy tai nghe, vẫn chạy theo mộng cảnh hư ảo. Ngỡ là cầm chắc được trong tay, ngờ đâu vừa chạm vào liền tan vỡ, hoa trong gương trăng dưới nưỡ, cuối cùng chỉ để lại dư vị hụt hẫng suy sụp.

Mắt ta thấy không xa hơn trăm thước, thế mà thu vào đầu biết bao tham đắm sắc dục tài danh, từ cái lợi nhỏ tới cái lời to, từ cái liếc mắt của người yêu đến nụ cười giai nhân. Nhìn từ mắt, thu vào tim, ngày nhớ đêm mong, dần thành chấp niệm, dần thành vọng nghiệp, dần thành trói buộc hãm vây đời này đời sau.

Tai ta có ngưỡng nghe giới hạn, không thể nghe tiếng cõi thấp hơn, cũng không thể nghe tiếng cõi cao hơn. Nhưng lại có thể nghe được những thị phi, chuyện xấu của người, lỡ nghe ai nhắc tới tên mình, liền thành cây khúc mắc trong lòng, ngứa ngáy, nhức nhối.

Người làm lỗi với mình, liền ôm hận vào lòng, trái tim mưng mủ cũng không muốn tha thứ, chỉ trong mấy chục năm đời này tâm hồn đã chắp vá xác xơ, nếu có khả năng nhìn lại tiền kiếp, chứng kiến ân ân oán oán đã ràng buộc nhau, lại nhìn tiếp về vị lai, thấy được oan gia nhiều đời tương phùng, bắt đầu tiếp nối vòng xoay của vận mệnh, làm sao một tâm phàm như chúng ta chống đỡ nổi? Nếu không có tu tập, không có thiền định, không có tĩnh toạ, nỗi đau mà chúng ta chịu đựng thống khổ vạn lần ở địa ngục. Đó chính là thần lực mà ta mong cầu, nhưng không đủ năng lực để tiếp nhận, phúc không xứng tầm, tất có tai ương.

Nghẫm kĩ hơn, dù ta chỉ là nhục căn phàm phu, nhưng va vào cảnh, trước khi phán đoán chậm lại một chút – đó là định, cho mình có thời khắc nghiền ngẫm và suy nghĩ, liệu suy đoán mình có sai không, có nguyên nhân có kiến giải nào khác không – đó là Tuệ, suy đoán mình có làm tổn thương người khác không – đó là từ bi. Phàm căn, nhưng không để tham sân si chi phối mà nương theo từ bi – trí tuệ để gieo nhân bậc thánh thì cũng không uổng căn trí ba mẹ ban tặng, không uổng một thân người quý giá.

Lục thông dẫu siêu việt đến đâu, cũng chỉ là thành quả gặt được trên bước đường tu tập nhiều đời của chư hiền thánh mà ai cũng phải bắt đầu từ bước đầu tiên. Quan Âm, Phổ Hiền, Văn Thù, Địa Tạng, những bậc thượng thủ đại thừa có ai không ra vào biển khổ nhân sinh, bao phen chìm nổi mới luyện được một thân thần lực. Quan Âm là hiển thị của pháp lắng nghe, Phổ Hiền biểu trưng cho hạnh nguyện, Văn Thù đại diện cho trí tuệ, Địa Tạng tiêu biểu cho sự kiên cố (của bồ đề tâm). Là đệ tử Phật, hãy để chánh kiến dẫn lối tư duy, đừng nhờ cậy vào phù phép bên ngoài, tập cho mình những công hạnh của Bồ Tát, tự thân ta đã viên thành lục thông.

Quảng Viên