Đức Phật dạy người tu đạo nên tránh hai thái cực này

Con người, suy tư cho tận cùng, người ta đi tìm kiếm cái gì trong cuộc sống nhỉ?

Tất nhiên sẽ không có một câu trả lời cho tất cả, mà chỉ có câu trả lời riêng biệt cho từng cá nhân, cộng đồng, tín ngưỡng hay sắc tộc… tùy theo biệt nghiệp và cộng nghiệp của họ. Tuy vậy, dù con người có chấp nhận một câu trả thời thế nào cho sự tiềm kiếm của mình trong kiếp sống thì sự thật mọi người đều muốn an lạc cho nội tâm và lành lặn cho thân thể là một mẫu số chung có thể thấy.

An lành, đầy đủ là an lạc cho nội tâm và lành lặn cho thân thể, chúng ta ở mọi giới đều mong muốn. Nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi làm thế nào để an lành có mặt thực sự và hiện hữu dài lâu trong đời sống tự thân và cộng đồng xã hội và muôn hiện hữu khác?

Có, nhân loại, từ những ngày ý thức văn minh vật chất cho đến những ngày bừng sáng tâm tư, đã từng đặt rất nhiều câu hỏi về an lành và tìm rất nhiều giải pháp để có được an lành trong cuộc sống. Nhưng số người đến được khung trời an lành thật sự thì quá ít so với số đông sống trong cô đơn, lệ thuộc, sợ hãi và đau khổ.

Đức Phật dạy người tu đạo nên tránh hai thái cực này 1

Nguyên nhân tại sao?

Do không liễu tri “Nhân Quả” và như thật biết rõ sức mạnh mềm của “Nghiệp”, nên con người không trọn vẹn tạo được nhân lành và giải trừ tận gốc bất thiện Nghiệp. Con người sát sanh, trộm cướp, xâm hại đức hạnh người khác, nói lời hung ác, sử dụng quá mức các chất gây nghiện, từ đó ngày càng lệ thuộc, sợ hãi, khổ đau, không an lành.

Do con người không chiêm nghiệm tận cùng được thế giới của năm dục (tham tài vật, tham sắc dục, tham danh quyền, tham ăn và tham ngủ), từ đó con người chỉ thấy vị ngọt mà không thấy sự hiểm nguy của các dục, cho nên con người bị say và bị lạc lối, giống như muốn hết khát nước nhưng lại uống nước mặn, càng uống càng khát, không thể bước ra được để đi tới an lành và tự do.

Do con người không đủ “Niệm” lực và “Định” lực, nên đứng trước dòng sông tâm tư và sức mạnh mềm của tham ái, cố giữ, muốn vĩnh hằng, con người cảm thấy bất lực, không còn đủ tự tin mình cũng có thể đi đến an lành, đi đến tự do.

Do tự thân không đủ tuệ giác, cũng như không có cơ duyên thân cận bậc chân nhân, nên không tìm được con đường hạnh phúc và an lành chân chính. Từ đó, bảo thủ, không biết nhưng không học hỏi, cũng không nghe được những chia sẻ quý giá về sự thật của kiếp người, thân phận, đau khổ, an lành và tự do. Nên, tưởng rằng mình đang đi đến an lành và hạnh phúc, hóa ra mình đi không đúng đường.

Khi chấp nhận mình có đau khổ, không an lành và chân thành nhìn lại, con người bắt đầu từng bước tự thấy. Bức màn vô minh từng bước vén lên. Khổ đau và nguyên nhân của khổ đau hay an lành và nguyên nhân đưa đến không an lành, sẽ dần dần được chiêm nghiệm sâu sắc và đi tới một hiểu biết như thật về nó đúng như nó. Bấy giờ, con người sẽ nhận ra lời chia sẻ của các bậc giác ngộ như Phật thật hợp lý và có thể sử dụng để xây dựng con đường hạnh phúc dài lâu cho mình và hoạch định rõ mục tiêu đời sống hướng tới an lành, chấm dứt khổ đau thật sự:

“Này các Tỳ-kheo, các dục vui ít khổ nhiều, sự nguy hiểm bên trong càng nhiều hơn”.

“Tất cả các hiện tượng nào có sanh khởi, có tồn tại, có tác dụng trên các hiện tượng khác, nói khác hơn là tất cả các pháp hữu vi, đều phải theo luật vô thường để đi đến hoại diệt. Muốn cho chúng còn mãi còn hoài mà không hoại diệt, đó là một chuyện không thể xảy ra. Như lai đã từng nhắc nhở quý vị nhiều lần rằng tất cả những gì ta trân quý hôm nay ngày mai thế nào ta cũng phải buông bỏ và xa lìa. Chính Như lai chẳng bao lâu nữa cũng sẽ ra đi. Vì vậy quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một ai khác…”.

“Này các vị Sa-môn, có hai thái cực mà người tu đạo nên tránh: một là lao mình vào khoái lạc nhục thể, hai là hành hạ thân xác cho hao mòn. Cả hai con đường đều đưa tới sự phá sản của thân tâm. Con đường mà tôi đã tìm ra là con đường trung đạo tránh được hai thái cực ấy và có thể đem đến trí tuệ, giải thoát và an lạc. Con đường đó là con đường Bát chánh: nhận thức chân chính, tư duy chân chính, ngôn ngữ chân chính, hành động chân chính, sinh kế chân chính, chuyên cần chân chính, niệm lực chân chính và định lực chân chính. Tôi đã theo con đường bát chánh đó và đã thực hiện được trí tuệ, giải thoát và an lạc.”.

“Này các vị, sao gọi là chánh đạo? Sở dĩ gọi là chánh đạo vì con đường này không phải là con đường trốn tránh đau khổ mà là con đường đối diện trực tiếp khổ đau để diệt trừ khổ đau. Con đường bát chánh này là con đường của sự sống tỉnh thức, vì vậy chánh niệm là khởi điểm. Có chánh niệm thì sẽ có chánh định, nghĩa là định lực có tác dụng đưa tới trí tuệ. Nhờ có niệm lực và định lực chân chính thì nhận thức, tư duy, ngôn từ, hành động, sinh kế và sự chuyên cần cũng sẽ đi vào chánh đạo. Trí tuệ được phát sinh sẽ giải thoát được cho người hành giả tất cả mọi ràng buộc khổ đau và làm phát sinh nơi người hành giả nguồn an lạc chân chính.”

Đức Phật dạy người tu đạo nên tránh hai thái cực này 2

Nghe và suy nghiệm lời Phật (ở trên) trên căn bản vấn nạn và không an lành của chính mình, con người có thể thấy và tin được con đường bát chánh, một con đường sống tỉnh thức, có thể giúp được tự thân và những người quanh mình. Người ta có thể bắt đầu bằng chánh niệm (ý thức sự sống, công việc, ý niệm… trong giây phút hiện tại) để đi tới an lành và tự do.

Bước đầu thực tập chánh niệm, có thể thực tập như sau: Đến một nơi yên tĩnh (góc vườn, trong phòng, công viên, bãi biển hay giữa thiên nhiên xanh), ngồi yên (có thể ngồi xếp bằng hoặc theo cách riêng thoải mái nhất), thư giản, để hơi thở và thân xác tự nhiên, biết rõ hơi thở vào ra, cảm nhận sự sống của xác thân và sự bình yên của tâm thức. Có thể nằm, cũng có thể đi bộ để thực tập chánh niệm. Điều quan trọng luôn nhớ là biết rõ hơi thở và cảm nhận sự sống. Thở sâu, tự mỉm cười và thư giãn giữa thiên nhiên trong lành rất được khuyến khích.