Năm trần cảnh và năm dục trưởng dưỡng


Ngày nào chúng ta cũng tiếp xúc với vô vàn kinh nghiệm. Thông thường, chúng ta phản ứng với những gì thấy, nghe, ngửi, nếm và xúc chạm bằng tham (lobha) và sân (dosa).

Vì vậy, năm trần cảnh được gọi là năm dục trưởng dưỡng (kāmaguṇa). Nếu không có si (moha), năm trần cảnh ấy chỉ đơn thuần là đối tượng quan sát, và khi ấy chúng trở thành Pháp trần (dhammārammaṇa).

Nếu kể thêm ý căn, thì thành sáu căn trần, sinh khởi suốt cả ngày. Bản thân sự sinh khởi ấy vốn không tốt cũng không xấu. Nhưng khi có sự kéo vào – đẩy ra, thì tâm không còn thực sự biết đúng nữa. Cái gì ưa thích thì kéo lại, cái gì không ưa thì đẩy đi. Chỉ khi nào năm trần không còn là năm dục trưởng dưỡng, mà trở thành Pháp trần, thì mới có thể khởi sinh tâm nhàm chán. Lúc đó, đặc tính vô thường (anicca), khổ (dukkha), vô ngã (anattā) mới hiển lộ rõ, và từ đó mới đi đến ly tham.

Năm trần cảnh và năm dục trưởng dưỡng 1
Ngày nào chúng ta cũng tiếp xúc với vô vàn kinh nghiệm.

Trong một sát-na, khi nghĩ “mùi này dễ chịu”, ta liền nắm lấy mùi ấy; nghĩ “vị này ngon”, ta liền nắm lấy vị ấy; xúc chạm và thấy dễ chịu, ta liền khởi tâm ưa thích. Ngay bây giờ, trong phòng tôi có một chiếc khăn choàng. Mỗi lần chạm vào, tâm ưa thích sinh khởi, vì vải của nó mềm. Tôi biết rõ điều này không phải nhờ gắng gượng chánh niệm. Mỗi khi chạm, tôi liền thấy rõ sự mềm mại và biết tâm đang ưa thích.

Tôi cũng nhận ra sự mềm mại và cái tâm ưa thích là hai việc tách biệt. Trong đời sống hằng ngày, khi năm trần tác động, nếu không có trí tuệ (paññā), tham và sân sẽ rất mạnh. Ngay cả khi có trí, ưa ghét vẫn khởi lên trong vô số vi tế. Chỉ khi nào ưa ghét hoàn toàn lắng xuống thì mới có an lạc thật sự. Và nói cho cùng, chỉ khi danh-sắc (nāma-rūpa) chấm dứt sinh khởi mới có an lạc rốt ráo. Khi ấy, ta yếm ly chính các danh-sắc này. “Yếm ly” không phải là chán ghét với sân (dosa), mà là thấy rõ phiền não (kilesa) là vô ích. Hành sâu, sẽ được tự do. Con đường vốn rất rõ ràng.

Các hành thấy – nghe – ngửi – nếm – xúc vẫn đang liên tục va chạm nơi sáu căn hằng ngày. Ta không cần cố ý chạy theo để biết. Chỉ cần biết, đơn thuần biết, và tỉnh thức. Như đã nói, sự mềm mại và tâm ưa thích tự nó xảy ra, ta chỉ việc biết, chỉ việc ghi nhận. Bởi vậy, tôi thường nhắc hành giả rằng hành thiền không phải là làm một việc gì quá gắng sức.

Nếu năng lực biết được duy trì và tăng trưởng, trí tuệ sẽ sinh. Với người mới bắt đầu thì khác: trí chưa mạnh, cần khởi động, cần phát triển yếu tố “trạch pháp” (dhammavicaya – khả năng quan sát, phân tích, tìm hiểu, phân biệt đúng sai, thiện ác, có lợi hay không có lợi của các Pháp đang sinh khởi) một chút. Về sau, khi trí đã mạnh và có đà, thì không cần nữa. Chỉ cần biết nhiều hơn, tự nó sẽ tiến triển. Chỉ cần biết rõ bản chất của Pháp (dhammasabhāva), không cần làm gì khác.

Tôi nhận ra rằng để trí tuệ sinh, ta không cần gắng gượng đuổi theo. Với chiếc khăn choàng kia, mỗi lần chạm, tâm ưa thích sinh, nó thích cái mềm. Mỗi khi nghĩ tới, nó lại hiện lên. Đừng cố ngăn chặn. Nếu chạy quanh để ngăn, thì như chặn đứng trí tuệ, khiến không hiểu được. Hãy để nó xảy ra tự nhiên, chỉ việc biết đúng như nó là. Lúc ấy, sự hiểu sâu sẽ sinh. Có một “vị ngọt” khi ta thuận theo cách nó đang vận hành, biết nó, rồi trí tuệ sáng ra.

Khi ta xoay tâm về phía Pháp, trí tuệ bắt đầu hoạt động. Chỉ cần khởi đúng tư duy (sammāsaṅkappa). Nhớ lại, thì việc hành Pháp tự xảy ra. Dĩ nhiên đôi khi ta quên. Nhưng khi niệm quay lại, khi ta hướng tâm về Pháp, thì sự hành Pháp lại tiếp tục. Vì vậy mới có câu: “Nếu không làm việc thiện, thì sẽ làm việc ác. Nếu không làm việc ác, thì sẽ làm việc thiện”.

Nếu si (moha) hiện diện, thì năm trần chính là năm dục trưởng dưỡng. Với tâm phàm phu (puthujjana), năm trần chỉ là năm dục trưởng dưỡng mà thôi.

Sayadaw U Tejaniya