Sợi dây

Tổ Quy Sơn có dạy: “Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cộng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vi bội”. Có nghĩa là, chúng ta do nghiệp lực ràng buộc mà lãnh thọ cái thân này nên không thể miễn được cái khổ lụy của xác thân. Lại nữa, thân xác này do một phần thân thể của cha mẹ và các ngoại duyên khác mà thành. Tuy là bốn đại đất, nước, gió, lửa hợp lại, nhưng thường hay chống trái, xung đột lẫn nhau.

Như vậy chúng ta thấy, phàm đã sinh làm người, làm chúng sinh thì tất cả đều do nghiệp lực dẫn dắt, ràng buộc. Chúng ta sinh ra trong cõi Ta-bà này là do nghiệp chi phối, chỉ trừ những bậc Thánh đã chứng đắc đạo giải thoát và phát nguyện sinh trở lại để độ chúng sinh. Song ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến khía cạnh của những người phàm phu còn bị nghiệp chi phối.

Sợi dây 1
Ảnh minh hoạ.

Trước khi đi xuất gia tu đạo, chúng ta bị ràng buộc bởi các mối quan hệ thế gian như công việc, bạn bè, gia đình, quyến thuộc… Sau khi xuất gia rồi, tạm bớt dần đi các mối quan hệ thế tục thì đôi khi, chúng ta lại bị ràng buộc bởi các sự ràng buộc khác cũng không hề kém. Đó là gì? Đó là sự ràng buộc bởi chùa chiền, chức sự, tông môn… Như vậy, sự ràng buộc thế tục chưa hết lại thêm sự ràng buộc mới sau khi xuất gia, làm cho hành giả phải lãnh một cổ hai tròng. Tại sao vậy? Chẳng phải chúng ta phát tâm xuất gia cầu đạo giải thoát, mong được hết khổ hay sao? Vậy mà có nhiều khi xuất gia xong thì sự ràng buộc, vướng mắc lại nhiều hơn nữa. Nguyên nhân ấy là do đâu? Do ta hay do người khác mang đến?

Đa phần chúng ta đều còn là phàm phu xuất gia nên sự đắm nhiễm về tài, sắc, danh, thực, thùy chưa dứt bỏ được. Người có tu tập tốt theo giáo lý của đức Phật thì năm thứ ấy nhẹ bớt; người tu tập chưa tốt, mải chạy theo pháp thế gian thì sự đắm nhiễm ấy càng nguy hiểm hơn. Nó sẽ chuyển từ thô sang tế với nhiều lý lẽ biện hộ.

Sắc là sắc của người nam và người nữ, sắc của cảnh vật… có sức hấp dẫn, lôi cuốn, mê mẩn người khác. Đây là nguyên nhân chủ yếu khiến người tu hành không thể đi trọn đường tu của mình.

Danh là danh vọng, địa vị, cấp bậc, tài năng… Người giỏi việc học kinh điển, giỏi thuyết pháp, tụng kinh, hướng dẫn đạo tràng, tổ chức khóa tu, làm các Phật sự… sẽ khiến cho người đó rất mau được nổi tiếng, sống trên mây xanh, nhưng nó là con dao hai lưỡi cực kỳ nguy hiểm cho những ai không có sự tu tập quán chiếu, không cảm nhận được sự nguy hiểm của vị ngọt trên lưỡi dao. Danh ít khi khiến hành giả phải dang dở đường tu của mình, nhưng lại là thứ vô cùng nguy hiểm trong đời sống của một người xuất gia. Tại sao vậy? Ở thế tục thì danh này đơn thuần chỉ là địa vị, chức tước trong xã hội, nhưng nó không bền lâu, vì khi không còn chức quyền thì danh ấy cũng hết. Tuy nhiên, đối  với người tu, có những cái danh mà càng sống lâu trong đạo thì nó càng tăng trưởng, chẳng hạn như tuổi hạ, trụ trì, tín đồ… Đa phần, người chưa có sự hành trì giáo lý thường bị dính mắc rất lớn vào những thứ này. Họ có đủ lý do rất chính đáng, rất hợp lý, lẽ tất nhiên cho những điều ấy, rằng đó là phép tắc, lễ nghĩa mà đương nhiên chấp nhận nó như một điều tất yếu hiển nhiên, để rồi cái bản ngã ngày càng tăng trưởng trong cái tất yếu hiển nhiên đó. Đây mới là điều thật sự nguy hiểm. Chúng tôi rất tâm đắc một câu của Sư Phụ chúng tôi, đó là:

“Tu càng lâu, ngã càng cao

Đạo càng xa, đọa càng nặng”.

Trong Nho giáo, rất chú trọng đến vấn đề lễ nghĩa, đáp lễ, có qua có lại. Bình thường, chúng ta sẽ thấy đó là một cách ứng xử chu đáo, đền đáp qua lại lẫn nhau, nhận ơn trả ơn… và đó được xem là một ứng xử văn hóa của người thế gian. Nhưng nếu đặt nặng vấn đề đó quá thì chúng ta sẽ không còn thấy nó là cái gì đó đẹp đẽ và dễ chịu nữa, mà là trở thành sự nợ nần lẫn nhau, kẻ mắc nợ và người đòi nợ. Khi người khác giúp ta điều gì thì một lẽ tất nhiên là chúng ta phải tìm cách để trả ơn họ, và họ ít nhiều cũng mong chờ điều đó. Nếu không như thế thì người làm ơn cũng không thật sự cảm thấy hài lòng, và người mang ơn thì cảm thấy khó xử. Vô hình trung, từ một việc làm tốt tương trợ cho nhau, trở thành sự ràng buộc lẫn nhau.

Xuất gia tu Phật là hành trình bước đến con đường giác ngộ, giải thoát. Vì vậy mà sự cởi bỏ những ràng buộc thế gian, ràng buộc của các dục càng nhiều chừng nào thì hành giả càng tiến gần đến mục đích chừng đó. Phải luôn luôn đặt lý tưởng và mục đích xuất gia của mình trước mặt để không bao giờ được quên nó. Trên cơ sở đó, quán chiếu sâu về giáo lý nhân quả, vô thường, vô ngã thì hành giả mới dần gỡ bỏ được các vướng mắc, ràng buộc, chấp trước. Là người đệ tử Phật, thì dù mình làm việc gì cũng chỉ xem đó là trách nhiệm và bổn phận chứ không mong cầu gì khác, sự đáp đền gì khác.

Có một lần, trong ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Tăng sinh trong lớp gởi lời tri ân lên một vị giáo thọ, thì vị ấy đã đáp lại rằng: “Tôi chỉ làm bổn phận và trách nhiệm của một người đệ tử Phật dành cho người đi sau. Tôi nhờ ơn đức của chư Phật, của đàn na tín thí nên góp một phần công sức để đền đáp thôi. Tôi không dám nhận mình là ân sư gì của các vị cả”. Chúng tôi nghe như vậy mà thấy thấm thía. Đúng là những tư tưởng, quan niệm của một người đệ tử Phật chân chính.

Cuộc sống là sự cộng sinh, tương trợ lẫn nhau. Thấy việc tốt thì làm, giúp người khác được gì thì cứ giúp, nhưng hãy làm trên tinh thần xả bỏ thì tất cả đều sẽ được an lạc. Đó cũng chính là tinh thần tu tập của người đệ tử Phật trên lộ trình tiến đến sự giác ngộ, giải thoát.


Tâm Nguyệt