Tâm, ý, thức và “tánh biết” (phần 2)


Kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm tu hành (tức các tướng biết) xen vào ngay khi các trạng thái “xúc” (giữa căn và cảnh) xảy ra.

Ý thức tác động cho rằng điều này nên hay không nên, điều này vi phạm hay không vi phạm… Như vậy ý thức khi ấy vẫn làm chủ chứ không cần sự có mặt hay đi qua của “tánh biết”.

Ngay cả chuyện “ăn biết mình đang ăn”, “uống biết mình đang uống” cũng là chuyện của ý thức, vì ý thức ban sơ vẫn rõ biết như vậy.

Một đứa trẻ nằm nôi, nó vẫn đang nghe mọi âm thanh, nhưng bỗng có tiếng sét nổ, dù chưa phân biệt rõ tiếng gì, nó vẫn giật mình sợ hãi. Tại sao? Tại xúc và thọ hoạt động mạnh hay còn có sự tham gia của tập khí chứa trong tiềm thức có từ nhiều đời?

Nếu chuyển từ “tướng” sang “tánh” thì hành vi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết trở thành chánh niệm, tỉnh giác, có thể có hay không có phân biệt, nhưng quan trọng là không gây ra các tâm thọ sầu, bi, khổ, ai, não…

Tâm, ý, thức và “tánh biết” (phần 2) 1
Thiền tập. Ảnh minh họa

Thực tế, ý thức dù đôi lúc chạy quẩn chạy quanh (tâm viên, ý mã), nhưng tất cả các hoạt động của 6 căn với 6 cảnh nó đều biết hết, điều phối nhanh nhạy, tinh vi, tế vi mà không cần “tánh biết” đi qua mới trở thành chính nó.

Rõ ràng, thức của “đệ lục thức”hay thức của thân ngũ uẩn là thức phân biệt. Cho nên nếu ai đó hiểu “tánh biết” đi qua ý căn để trở thành “ý thức” thì chính điều đó vô hình chung đã thừa nhận “tánh biết” dù không hoàn toàn thì cũng là một phần của tâm phân biệt, vì không thể có một “tánh biết” (không phân biệt) lại trở thành một “ý thức” (luôn phân biệt). Đó là mâu thuẫn.

Cho nên “tánh biết” nếu có không phân biệt là ở giai đoạn tái sinh khi “thức” đi vào “danh sắc”. Ví như nước chứa trong bồn, xô, chậu, chai lọ, cốc dù thể tích (tướng dung chứa) khác nhau thế nào thì nước vẫn là nước. Tức tánh biết như nước còn việc tuỳ nghiệp thọ sinh chọn cho mình khả năng dung chứa thế nào thì cũng không làm tánh biết (cho đến tánh nghe, ngửi, nếm, xúc) mất đi.

Còn khi làm nhân cho “lục nhập” (trong quan hệ 12 xứ, 18 giới) thì phát sinh vô số nhận biết phân biệt. Và đương nhiên còn tuỳ thuộc vào quá trình tích luỹ của hành nghiệp (quá khứ) mà sai khác nhau.

Muốn phân biệt (thiện ác, đúng sai, cao thấp, hơn kém, trong ngoài, nên hay không nên…) phải do hiểu biết, kiến thức, nhận thức, kinh nghiệm tích luỹ tác động. Thức của thân ngũ uẩn là cái biết riêng theo mỗi hành nghiệp của chúng sinh. Nhưng thức của “thất đại” như trong kinh Thủ lăng nghiêm nói là thức chung trong biển tâm thức vô biên ấy, cũng gọi là Như Lai tàng hay Như Lai tàng tâm, Chủng thức…

Khoa học phân tâm thừa nhận ngoài ý thức có tiềm thức và vô thức. Còn trong Duy thức học Phật giáo có bát thức (8 tâm vương) và 54 tâm sở. Trong 8 tâm vương, thì a đà na thức, mạt na thức, a lại da thức (tàng thức) ẩn sâu bên trong tâm thức, còn 6 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) hoạt động không gián đoạn thông qua trần cảnh bên ngoài.

Cũng như vậy, ý thức có thể làm chủ, dẫn dắt, bảo vệ thân tâm để tránh những tác động quá mức của trần cảnh. Nhưng tại sao trong quá trình sinh trụ dị diệt, có người vừa sinh ra đã chấm dứt luôn cả 4 quá trình kia, mà có người thì hàng trăm tuổi mới chấm dứt?

Ngay cả khi con người ở thế giới này bị hoại diệt thì cái thức chung trong vô tận dải ngân hà vẫn đang tham dự vào quá trình sinh trụ dị diệt của các loại chúng sinh khác nhau.

Tàng thức của chúng ta vốn dung chứa đầy đủ hành nghiệp của cả ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai). Cho nên ta là người thừa tự nghiệp (quá khứ) mà cũng là chủ nhân của nghiệp (hiện tại).

Chỉ khi ra khỏi thức của thân ngũ uẩn thì mới không còn phân biệt. Một khi đã khởi động thức quả tái sinh trong Tam giới thì còn nằm trong thức phân biệt. Vì vô minh vẫn phủ trùm lên Tam giới, và sở hữu si luôn chị phối mạnh mẽ Dục giới.

Vì thế với “danh sắc”, Đức Phật gọi chung là “thân ngũ uẩn”, chứ không gọi cụ thể là ông A hay bà B. Vì cả ông A bà B đều có thân ngũ uẩn, nhưng mỗi người có một thức (và tàng thức chứa nhóm) riêng biệt. Và thức riêng của chúng sinh lại nằm trong cái biển thức chung nên mới có cộng nghiệp và biệt nghiệp.

Chuyển thức thành trí là chuyển từ thức phân biệt riêng có kia sang thức chung trong biển thức vô tận ấy. Khi ấy, thức trở thành trí vô ngại, trí lậu tận, hay trí vô sư. Và khi trí kia rõ biết quy luật sinh trụ dị diệt, vô thường, khổ, vô ngã rồi thì nó không còn động lực (phóng dật) của sơ hữu si để khởi phân biệt, và vì vậy không bị kiến thức, kinh nghiệm, cảm xúc dẫn dắt…

Sở dĩ thức chúng ta không sống với hiện tại của căn và trần đang diễn ra, vì chúng ta sử dụng toàn bộ trí thông minh, hiểu biết đúng sai, cao thấp, nhiễm tịnh chứa trong tàng thức ấy và đưa nó ra một cách có điều kiện ngay khi tiếp xúc.

Cho nên một khi bỏ ngay nơi căn – cảnh tiếp xúc (cảnh ngoại) đi vào cảnh nội (cảnh ý) thì chúng ta tưởng sự việc nó như vậy, tưởng ra cách giải quyết như vậy, tưởng ra người ta sẽ phản ứng như vậy, sau đó vận dụng toàn bộ trí thông minh dự trữ trong tàng thức đưa nó ra ngoài để ứng xử. Ai có kiến thức hiểu biết chung như chúng ta thì tán đồng, còn không thì phản đối…

Vậy nên chuyện phân biệt đúng sai là các trạng thái vận hành của tâm, còn thái độ với đúng sai như thế nào là cách thức vận hành của trí.

Tại sao Đức Phật nói: “Cái thấy, cái biết, cái nghe không phải là ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta”?

Vì cái thấy, cái biết, cái nghe kia chưa chuyển thành trí để hiểu rõ quy luật của tâm – cảnh. Và nó không phải “của ta” vì nó nghe bằng kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm… Nếu đã có chung kiến thức (về một lĩnh vực), thì nghìn người thấy nghe đều thấy nghe như nhau không lẫn.

Ví dụ về tiếng gà gáy, một em bé còn nằm trong nôi, khi con gà gáy lên, em bé vẫn nghe mà không biết đó là tiếng con gà gáy. Em bé có ý thức hiện lượng nhưng chưa khởi động ý thức phân biệt để giúp nhĩ thức phân biệt các loại âm thanh. Nhưng dù biết phân biệt hay không, “tánh nghe” vẫn hiện diện.

Nhưng với những người có kiến thức về âm thanh rồi, thì 100 người nghe đều bảo đó là tiếng con gà gáy. Nếu 100 người cùng nghe giống như nhau, thì cái nghe kia, cũng không phải cái nghe “của ta” vậy.

Những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc cần hình tướng cụ thể để tương tác, nhưng cái biết thì cần tâm hồn. Thiếu (hay mất) ý thức thì cũng ví như có xác mà không có hồn vậy.

Kinh Pháp Cú nói ý dẫn đầu, ý làm chủ. Cho nên chuyển thức về trí chính là để ý thức làm chủ chứ không phải để sự hiểu biết làm chủ.

Vì sự hiểu biết luôn giới hạn trong môi trường, hoàn cảnh giáo dục, trong phạm vi học tập và tiếp nhận.  Trong khi ý thức vì dẫn đầu, làm chủ tạo tác nên nó luôn tìm cách vượt lên các giới hạn, giải phóng tư tưởng, tức nó không đóng khung sự sống vào sự hiểu biết sẵn có.

Ý thức sống bằng chính sự sống đang diễn ra nơi trần cảnh thì nó tràn đầy rung cảm tâm hồn, vì nó thấy sức sống bên ngoài và sức sống nơi các căn của nó nương gá, làm một thể với nhau. Cũng vì thế nên nó không gây chiến, so sánh hơn kém hay tham sân si, não hại, hiềm thù…

Còn nếu ý thức để cho kinh nghiệm, kiến thức, sự hiểu biết đóng khung dẫn dắt, ngăn che thì nó nghi kị, phòng ngừa, gây chiến với chính những tác động từ bên ngoài đưa vào và nó tự gây chiến với chính nó. Tức nó sống bằng suy nghĩ rằng sức sống của nó phải duy trì bằng các cách thức đấu tranh sinh tồn, sau đó lấy lăng kính chủ quan áp đặt cho đồng loại, phải giải quyết thế này, phải ứng xử như thế kia…

Cho nên người ta nói “ý thức”công cũng to mà tội cũng lớn. Chính cái tư duy “công tội” này mà họ muốn thay thế nó bằng “tánh biết” sáng chói, thanh tịnh, trong khi chính “tâm”, “ý”, “thức” vốn là một thể bao trùm cả thiện – ác.

Nếu có một tánh biết sáng chói, thanh tịnh ngoài tâm, ý, thức thì cái gì sinh ra cái sáng chói, thanh tịnh ấy? Cho nên “tánh biết” cũng như tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc chạm vốn thường trụ không thêm bớt. Vạn pháp vốn tự đầy đủ. Tức vốn dĩ nó như vậy thì sao phải gá cho nó những khái niệm “sáng chói”, “thanh tịnh”…

Ví dụ tánh thấy, dù bật đèn lên hay không bật đèn lên thì tánh thấy cũng không mất đi, tức nó không phụ thuộc vào điều kiện ánh sáng. Ngay cả khi tối om không nhìn rõ để phân biệt sự vật thì nó vẫn phải thấy tối. Vì nếu tánh thấy mất đi do tắt đèn thì ngay khi bật đèn lên, cái gì kéo tánh thấy trở lại để thấy tiếp?

Tánh biết cũng như vậy, nó cũng tòng theo tướng của ý thức để biết, nhưng nó không phải sự hiểu biết. Vì các pháp xưa nay vốn vậy, nếu nói ra bằng hiểu biết chứa sẵn thì cũng giống như người đang đứng đọc văn bản, không có gì mới hơn cái đã được biết và viết ra đó. Cho nên nếu để hiểu biết đi trước thì ý thức vắng mặt.

Hiện nay trí tuệ nhân tạo Al hoàn toàn có thể làm điều này mà không cần sự có mặt của ý thức vì nó thuộc về sự hiểu biết được tích luỹ, phân tích, tổng hợp trước đó.

Ý thức nó bao trùm các căn, sống cùng lúc với tất cả các căn, thấy biết tất cả trần cảnh mà không cần sự hiểu biết nào hiện diện trong đó. Cũng có khi ý thức muốn dừng lại ngay nơi trần cảnh ấy còn hiểu biết thì không.

Ví dụ người ta đem đến một món ăn, chỉ cần ý thức rõ biết đó là món ăn mà không cần phải mỗi ngày mỗi bữa đi phân tích thức ăn có độc hay không có độc. Nhưng hiểu biết thì khác nó suy nghĩ nên ăn hay không nên ăn và đem kiến thức, kinh nghiệm vào phân tích, từ đó nảy sinh nghi ngờ, do dự, đề phòng…

Khi tái sinh, vô minh khởi động sang “hành” (các nghiệp thiện bất thiện), “hành” chuyển sang “thức” (thức quả) thì tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc, tánh biết cùng lúc tìm đến nương gá nơi một “danh sắc” và thông qua “lục nhập” để đi vào thế giới trong hiện tại.

Cho nên các tánh kia là sự cộng hưởng mà ý thức đã tạo tác rồi đưa vào chứa nhóm trong tàng thức. Do đó, thức nghe, thức ngửi, thức nếm, thức xúc, thức biết thông qua căn và cảnh, đem hết sự hiểu biết thu nạp, tích luỹ từ trong quá khứ nay trình diễn ra. Và trong quá trình trình diễn này ý thức tiếp tục làm chủ, dẫn dắt, tạo tác và không ngừng đưa thêm cái mới vào chứa nhóm. Vì vậy sự hơn kém, khác nhau nơi mỗi người là do trí văn, trí tư, trí tu không đồng.

Tánh biết có thể không phân biệt nhưng tướng biết thông qua những hiểu biết đã chứa nhóm, nó sẽ tự mách bảo cuốn sách này, vấn đề này đã hiểu biết rồi nên không cần nghe đọc lại nữa. Vì thế sẽ rất chán khi ngồi nghe điều người khác nói đi nói lại trong khi mình đã biết rõ nó rồi.

Nhưng ý thức thì khác, lúc nào với nó trần cảnh này cũng mới tinh. Nên nếu cần đọc bộ kinh đó hàng nghìn lượt thì nó vẫn ngồi đọc mà không biết chán. Cụ Nguyễn Du nói: “Ta từng đọc kinh Kim Cương hàng nghìn lượt…”.

Nếu cụ Nguyễn Du đọc bằng sự hiểu biết đã đóng khung thì cụ sẽ chán ngay. Tại sao một cuốn sách đọc 3 lần 5 lần đã xem như là “nặng tình” với nó, nhưng một bộ kinh có thể tụng đọc cả đời không chán.

Đây rõ ràng tâm làm chủ, ý thức làm chủ chứ không phải sự hiểu biết làm chủ.

>>> Phần 1: Tâm, ý, thức và “tánh biết”

Thích Thanh Thắng