Tỳ-kheo-ni thời Đức Phật

Nữ Tôn giả Đại Ái Đạo (Mahāprajāpatī Gautamī) cùng chư Ni trước Đức Phật – Tranh minh họa nước ngoài

Sau mùa an cư thứ năm tại Vaili, Đức Phật cho phép Di mẫu Gotami cùng 500 người nữ dòng họ Kya và Koliya xuất gia. Bát kỉnh pháp là giới điều đầu tiên của các Tỳ-kheo-ni.

Y như lời Đức Phật chỉ dạy là người nữ cũng có khả năng thành tựu Tứ thánh quả, khoảng thời gian không lâu sau khi xuất gia, Di mẫu Gotami chứng A-la-hán, được Phật xác nhận là vị đệ nhất kinh nghiệm trong số các Trưởng lão Ni.

Di mẫu là vị thầy có thể làm lễ xuất gia, dạy bảo và trông nom Ni chúng. Tại Vaili, trong khu vực tinh xá của Đức Phật, vẫn còn di chỉ khu vực tinh xá Tỳ-kheo-ni. Sự hoạt động của giáo đoàn Ni một thời đem lại luồng gió mát cho người nữ, và có lẽ rằng chỉ trong hội chúng của Đức Phật mới có một hội chúng Ni an lạc giải thoát.

Dấu vết hoạt động của các Tỳ-kheo-ni được ghi lại nhiều nhất trong Trưởng Lão Ni kệ (Therỵ-gth). Theo Phật xuất gia, chấm dứt những đoạn đường trần ai lai khổ, ca lên bài vĩnh hằng, Di mẫu Gotami nói:

Trước ta sống là mẹ

Là con, là cha, anh

Là ông nội, ông ngoại,

Đời sống trước là vậy.

Không rõ biết như thật

Luân hồi, tìm không gặp

Nay ta thấy Thế Tôn

Thân này thân tối hậu,

Sanh tử được đoạn tận,

Nay không còn tái sanh.

Các vị Trưởng lão Ni chứng Thánh quả rất nhiều, chói sáng cả thế gian, nhưng chỉ có khoảng 73 vị để lại tiểu sử. Đây là con số trượng trưng, vì một vị Ni có thể có đến 500 đệ tử Ni đều chứng Thánh quả như ngài Patacr. Kinh A hàm kể lại trường hợp Di mẫu Gotami đã dẫn 500 vị A-la-hán Ni đến xin Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn trước. Đó là vào khoảng mùa an cư thứ 43 (năm -547) của Phật. Tại Vaili, ngài đã cùng 500 thánh Ni thực hiện thần thông, bay lên hư không, đi xuyên qua đất, phóng lửa và nước từ hai bên thân… rồi nhập Niết-bàn. Dân chúng Vaili mang hương hoa củi lửa trà-tỳ thân các vị, xá lợi của ngài Di mẫu được để trong bình và mang về trình Đức Phật. Phật nói với chúng hội: “Ma-ha Ba-xà-ba-đề là một bậc trượng phu, đã làm xong việc”. Tính ra, ngài thọ 117 tuổi, bậc lão Ni mở con đường sáng cho Ni giới, làm chỗ nương tựa thật sự cho trời người.

Chư Ni xuất gia trong nhiều trường hợp, nhiều hoàn cảnh đặc biệt. Có vị sang cả quý phái như hoàng hậu Khema, công chúa Sundari Nanda, có nhiều vị ở trong hoàng tộc Licchavi, quý tộc Kosambi, triệu phú Savathi. Cũng có người xuất thân làm kỹ nữ như Vimal, chỉ vì trong thời quá khứ, ngài cũng từng là Tỳ-kheo-ni, nhưng mắng một Tỳ-kheo-ni khác là “Đồ kỹ nữ”, mang quả báo cho đến đời này. Khi chứng Thánh quả, giải thoát hết nhân duyên tái sanh, và cũng hóa giải luôn kết quả bất thiện của một câu ác khẩu, Vimal nói:

Mọi khổ ách đoạn tận,

Cả cõi trời cõi người

Quăng bỏ mọi lậu hoặc,

Ta mát lạnh tịch tịnh.

Giáo pháp của Đức Phật như dòng suối mát, đón nhận tất cả chúng sanh đến uống no nê, tắm rửa giặt giũ không phân biệt. Mùa an cư thứ 28 (-562) tại Kỳ Viên, Phật hóa độ cho một cô gái tiện dân là Prakriti (Bát-cát-đế). Sau khi được Trưởng lão Ni Khema hướng dẫn, Prakriti tu tập tinh tấn, đắc quả A-la-hán, qua mặt ngài A-nan, vốn là nguyên nhân dẫn Prakriti đến trước Phật. Tin đó cũng khiến vua Ba-tư-nặc đến hỏi Phật, việc các phụ nữ dòng Bà-la-môn hay Sát-đế-lợi xuất gia thì tạm được, nhưng một cô gái Chiên-đà-la xuất gia làm ô nhục cả giới tu sĩ. Đức Phật thí dụ có hai người, một thuộc Sát-đế-lợi, một thuộc Chiên-đà-la cùng tắm trong dòng nước, sau khi tắm sạch lau khô và xức nước hoa thì thân thể cũng sạch thơm như nhau.

Thái độ bình đẳng và lòng từ của Đức Phật, của chư vị Trưởng lão Ni luôn là tấm gương sáng muôn đời. Từ đó đến nay biết bao mùa an cư trôi qua, và mùa an cư không phân biệt Tăng hay Ni, không kể sang hèn giàu nghèo, cùng đem lại hương vị giải thoát bình an cho những ai tham dự.

Như Đức/Báo Giác Ngộ